Đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao ngành Tài nguyên và Môi trường gắn với nhu cầu thực tế của xã hội ở Trường ĐHNL Huế

0
841

 

ĐÀO TÀO
NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO NGÀNH TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG GẮN VỚI NHU CẦU
THỰC TẾ CỦA XÃ HỘI Ở TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM HUẾ

 

 

TS.
Huỳnh Văn Chương

 Trưởng khoa Tài nguyên đất và Môi
trường-  Trường Đại học Nông Lâm Huế

102 Phùng Hương- TP Huế, ĐT: 054
3514516, Fax: 054 3524923

Email: huynhvanchuong@huaf.edu.vn,
www.huaf.edu.vn

 

 

 

1. BỐI
CẢNH CHUNG

Đẩy mạnh kinh tế hoá ngành
Tài nguyên và Môi trường là một trong chủ trương lớn được Đảng và Nhà nước chú
trọng đầu tư phát triển để trở thành ngành kinh tế mang lợi ích lớn của đất
nước ta trong thời gian tới và đã được cụ thể hoá ở Nghị quyết số 27/NQ-CP ngày 12 tháng 06 năm 2009 của Thủ tướng chính
phủ về một số giải pháp cấp bách trong công tác quản lý nhà nước về Tài nguyên
và Môi trường
. So với các ngành kinh tế khác, Tài nguyên và Môi trường là
một trong những ngành kinh tế còn non trẻ của Việt Nam, đặc biệt là về lĩnh vực
đào tạo nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn nghề nghiệp và trình độ quản lý.
Trong khi đó nhu cầu của xã hội về nguồn nhân lực trong lĩnh vực hoạt động Tài
nguyên và Môi trường trên phạm vi toàn quốc nói chung và khu vực miền Trung và
Tây nguyên nói riêng ngày càng tăng.

Để đáp ứng nhu cầu
thực tế trên của xã hội và được sự đồng ý của Bộ Giáo dục và Đào tạo, bắt đầu từ
năm 1995 đến nay, Trường Đại học Nông Lâm- Đại học Huế đã tiến hành đào tạo
nguồn nhân lực bậc Đại học và sau Đại học thuộc lĩnh vực Tài nguyên và Môi
trường cho các tỉnh miền Trung, Tây nguyên và cả nước gồm: Quản lý đất đai, Quản lý thị
trường bất động sản, Khoa học đất và Môi trường, Tài nguyên rừng và Môi trường,
Quản lý môi trường và nguồn lợi thuỷ sản
; và đang tiếp tục đa dạng hoá ngành nghề đào tạo lĩnh vực này
trong thời gian tới. Cho đến nay,
Trường đã đào tạo được hơn 1.800 kỹ sư tốt nghiệp ra trường và đang công tác từ
cấp xã phường đến Trung ương thuộc các lĩnh vực Tài nguyên và Môi trường (trong
hơn 20.000 kỹ sư đã tốt nghiệp tất cả các ngành), trong đó 80% nguồn nhân lực
này phục vụ cho các tỉnh miền Trung và Tây nguyên và nhiều cựu sinh viên đã trở
thành cán bộ chuyên môn và quản lý chủ chót ở các tỉnh.

Trường Đại học Nông
Lâm Huế được thành lập năm 1967 tại Hà Bắc, được chuyển vào Huế năm 1984 và năm
1994 trở thành thành viên của Đại học Vùng Huế cho đến nay. Sứ
mạng của Trường là đào tạo nguồn nhân lực nông-lâm-ngư nghiệp, tài nguyên và
môi trường, phát triển nông thôn bền vững ở cả bậc Đại học và sau Đại học cho
các tỉnh miền Trung, Tây nguyên và cả nước.
Hiện tại trường có đội ngũ
cán bộ giảng viên là trên 460 người trong đó trên 80 cán bộ giảng viên có học
vị Tiến sỹ, Phó giáo sư được đào tạo ở hầu hết các nước tiên tiến trên thế giới.
Trường có quan hệ hợp tác với nhiều tổ chức và trường Đại học trên thế giới về
lĩnh vực Tài nguyên và Môi trường như IDRC, Tropenbos, ACIAR, CIDA, VNRP, ICCO,
NUFFIC, SIDA/SAREC, IFS, FORD FOUNDATION, ĐH Utrech (Hà Làn) ĐH Uppsala (Thuỵ
Điển), ĐH Okayama (Nhật Bản), ĐH Griefswald (CHLB Đức), ĐH Humboldt-Berlin
(CHLB Đức), ĐH Kyoto (Nhật Bản), ĐH Wagenigen (Hà Lan),…

2. ĐÀO
TẠO NGUỒN NHÂN LỰC TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG

Hiện tại, Trường Đại
học Nông Lâm Huế có 21 chuyên ngành đào tạo và Sau đại học (Thạc sĩ và Tiến sỹ)
trong đó các chuyên ngành đào tạo về lĩnh vực Tài nguyên và Môi trường như sau:

2.1. Đào tạo bậc Đại học:

           
Ngành Quản lý đất đai:
đào tạo 100-150 sinh viên hằng năm

           
Ngành Quản lý thị trường bất động sản:
đào tạo 80-100 sinh viên hằng
năm

           
Ngành Khoa học đất và Môi trường:
đào tạo 40-50 sinh viên hằng năm

           
Ngành Quản lý môi trường và nguồn lợi thuỷ sản:
đào tạo 80-100 sinh
viên hằng năm

           
Ngành Quản lý tài nguyên rừng và môi trường:
đào tạo 80-100 sinh viên
hằng năm

2.2. Đào tạo sau Đại học:

           
Ngành Quản lý đất đai:
15-20 học viên/năm

2.3. Hợp tác quốc tế đào tạo Sau Đại học

           
Ngành Quản lý tài nguyên thiên nhiên tổng hợp:
hợp tác với AIT tại Thái
Lan từ năm 2010

            Ngành
khoa học nông nghiệp và môi trường bền vững:
hợp tác với Đại học
Okayama (Nhật Bản) từ năm 2006 đến nay và kéo dài 10 khoá liên tục.

2.4. Các Trường thành viên khác Đại học Huế có tham gia
đào tạo nguồn nhân lực TN và MT, gồm các chuyên ngành:

           
Kinh tế Tài nguyên và Môi trường:
Trường Đại học Kinh tế Huế

           
Khoa học Môi trường:
Trường Đại học Khoa học Huế

           
Quản lý Môi trường:
Trường Đại học Khoa học Huế

            – Kỹ
thuật Trắc địa và Bản đồ:
Phân viện Đại học Huế tại Quảng Trị

2.5. Chiến lược mở rộng ngành nghề đào tạo chất lượng cao
của Trường ĐHNL Huế thuộc lĩnh vực Tài nguyên và Môi trường

            Trường
nhận thấy việc đào tạo một số ngành như Quản lý đất đai đến một lúc sẽ bão hoà
và cân đối cung cầu của xã hội từ nay đến năm 2020. Việc xây dựng chiến lược
phát triển nguồn ngân lực chất lượng cao, trình độ cao để phát triển cán bộ
chuyên môn kế cận giữ các cương vị chủ chốt về quản lý và kỹ thuật thuộc lĩnh
vực TN và MT ở miền Trung và Tây nguyên là nhiệm vụ được ưu tiên hiện nay của
Trường. Bên cạnh đó việc chuẩn bị cơ sở vật chất và nguồn lực cán bộ giảng dạy
để mở rộng và đa dạng hoá một số ngành nghề mới về TN và MT và trong chiến lược
phát triển của đất nước trong 20-30 năm cần đến đó là:

            –
Bậc Tiến sỹ: Quản lý đất đai, Quản lý Tài nguyên thiên nhiên tổng hợp, Tài
nguyên rừng, Qui hoạch và sử dụng đất.

            –
Bậc Đại học: Kỹ thuật môi trường nông nghiệp, Quản lý tài nguyên nước, Công
nghệ quản lý đất đai và môi trường, …

            Chúng
tôi rất mong muốn được phía Bộ TN và MT có ý kiến đóng góp thêm vào chiến lược
phát triển nguồn nhân lực trình độ cao này ở các hội nghị sắp đến và quá trình
tham gia bàn chiến lược nguồn nhân lực từ nay đến 2020 và tầm nhìn 2030 của Bộ
để giúp Trường bổ sung và có chiến lược qui hoạch ngành nghề đào tạo thời gian
tới sát với thực tiễn xã hội.

3. ĐÀO
TẠO NGUỒN LỰC GẮN VỚI NHU CẦU THỰC TẾ XÃ HỘI

Với mục đích cung cấp
cho người học các kiến thức khoa học cơ bản và các kiến thức chuyên ngành để
sau khi tốt nghiệp họ có thể dễ dàng nhập cuộc và nhanh chóng hòa mình vào đời
sống xã hội, sử dụng kiến thức đã tích lũy để làm việc. Do đó mục tiêu đào tạo
là đào tạo các cán bộ kỹ thuật và quản lý trình độ kỹ sư có các kỹ năng chuyên
sâu về các lĩnh vực sau:

1. Phân tích các yếu
tố tác động lên sự phát triển ngành Tài nguyên và Môi trường của quốc gia và quốc
tế

            2. Nắm bắt được các chính sách và định
chế về quản lý Tài nguyên và Môi trường.

            3. Phân tích và thực hiện được các
chiến lược để phát triển ngành Tài nguyên và Môi trường của quốc gia.

            4. Có hiểu biết về ngoại ngữ và công
nghệ thông tin các chuyên ngành về Tài nguyên và Môi trường.

            5. Có khả năng hoạch định và kiểm
soát các dự án phát triển Tài nguyên và Môi trường.

            6. Hoạch định các chính sách phát
triển Tài nguyên và Môi trường theo từng địa phương.

            7. Có kỹ năng chuyên môn nghề nghiệp
và ham muốn học tập suốt đời để nâng cao hiểu biết và có trình độ bậc cao.

            Để giúp cho người học có chuyên môn nghề nghiệp trình độ cao đáp ứng nhu cầu
thực tế xã hội, chương trình đào tạo các ngành học ở bậc Đại học tại trường Đại
học Nông Lâm Huế đã được thiết kế theo hệ thống đào tạo tín chỉ từ năm 2008. Gồm
hai phần: kiến thức giáo dục đại cương và kiến thức chuyên nghiệp. Xu hướng
chung của các ngành đào tạo là càng về các năm cuối (năm 3 và 4) sinh viên càng
có cơ hội đi sâu và lựa chọn các chuyên ngành hẹp để hướng tới nghề nghiệp sau
khi ra trường có thể làm việc được ngay. Ví dụ điển hình như ngành Quản lý đất
đai, sau khi học hết 5 học kỳ đầu, 02 kỳ cuối trước khi đi thực tập tốt nghiệp,
sinh viên có thể bắt đầu tham gia nghiên cứu khoa học, lựa chọn các môn học
chuyên ngành hẹp như nhóm môn chuyên sâu về Trắc địa-bản đồ, nhóm môn chuyên
sâu về Hệ thống thông tin địa lý, nhóm môn chuyên sâu về Qui hoạch và sử dụng đất,
nhóm môn chuyên sâu về Quản lý nhà nước về đất đai tương ứng với các phòng
chuyên môn hiện nay ở các cơ quan chuyên môn TN và MT. Và trên cơ sở các hướng
chuyên sâu đó sinh viên tiếp tục chọn địa điểm và nơi thực tập tốt nghiệp phù hợp
với các chuyên ngành hẹp tại các cơ quan chuyên môn từ cấp huyện đến cấp tỉnh,
các công ty, trung tâm nghiên cứu.

            Bắt đầu tuyển sinh các ngành thuộc
lĩnh vực Tài nguyên và Môi trường từ những năm 1995 đến nay, số lượng sinh viên
ngành Quản lý đất đai của trường Đại học Nông Lâm Huế đã lên tới gần 1600 sinh
viên và tiến hành đào tạo theo hướng đa dạng hóa gồm các hệ chính quy (đào tạo
bậc đại học, sau đại học), các hệ vừa học vừa làm (giúp cho việc giải quyết thiếu
nguồn nhân lực tại chổ của các địa phương những năm đầu thành lập ngành TN và
MT và việc chuyển đổi ngành nghề từ các ngành khác sang ngành TN và MT). Nhiều
sinh viên giỏi, suất sắc của Trường ở các ngành học Tài nguyên và Môi trường đã
được tiếp tục chọn lựa để đào tạo trong và ngoài nước và nay đã trở thành cán bộ
giảng dạy và nghiên cứu ở các Trường Đại học ở miền Trung và Tây nguyên có đào
tạo nguồn nhân lực TN và MT như Trường Đại học Qui Nhơn, Đại học Tây Nguyên, Đại
học Phạm Văn Đồng, Cao đẵng KT-KT Quảng Nan, CĐ Kinh tế- Thuỷ lợi Hội An,.. có
thể nói nguồn nhân lực đào tạo hơn 10 năm qua ngành Quản lý đất đai của Trường đến
nay đã trở thành cái nôi của Miền Trung và gần như cán bộ các phòng ban của của
huyện và sở ngành TN và MT đều chiếm số lượng lớn cựu sinh viên của Trường.

Một
trong những vấn đề đào tạo được trường Đại học Nông Lâm cũng rất quan tâm trong
giai đoạn hiện nay là đào tạo ra đội ngũ nguồn nhân lực đáp ứng được nhu cầu
của các doanh nghiệp nhất là lĩnh vực Quản lý bất động sản,  Quản lý tài nguyên nước,… Và để đạt được mục
tiêu này, trách nhiệm của Trường phải tìm kiếm thêm nguồn chuyên gia và cán bộ có
kiến thức sâu về lĩnh vực mới này ở miền Trung và cả nước cùng tham gia đào tạo,
việc nâng cao kiến thức thực tế ở các cơ quan, công ty, doanh nghiệp ngay trong
quá trình đào tạo 4 năm tại Trường là vấn đề quan trọng được trường quan tâm đẩy
mạnh xúc tiến hiện nay. Do vậy trong chương trình đào tạo phần kiến thức thực
hành và rèn kỹ năng tay nghề chiếm một tỷ trọng tương đối cao (từ 30-40%). Phần
kiến thức thực hành và rèn tay nghề chia làm các giai đoạn trong suốt 4 năm học
tại Trường đối với bậc Đại học, cụ thể như sau:

Giai
đoạn rèn kỹ năng tay nghề:
Sau khi học xong khối kiến thức đại cương và
kiến thức cơ sở ngành (2 năm đầu) sinh viên có thời gian thực hành các môn học
chiếm 30%  khối lượng kiến thức tại các
cơ sở của trường và đặc biệt có thời gian từ 15 ngày đến 1 tháng làm việc ngay
tại thực địa và lồng ghép phần lý thuyết giảng dạy với việc rèn tay nghề. Giai
đoạn này sinh viên được làm quen với phương pháp làm việc theo nhóm đông tập
trung, nhóm nhỏ và cá nhân để hoàn thành các công trình thực tế.  

Giai
đoạn thực tập giáo trình tổng hợp:
Sau khi kết thúc tất cả các môn học chuyên
ngành, sinh viên có đợt thực tập dã ngoại dài ngày từ 15 ngày đến 1 tháng tại
các cơ quan chuyên môn cấp tỉnh, huyện và xã. Giai đoạn này sinh viên chủ yếu
làm việc theo cách chia nhóm nhỏ và cá nhân, cách tiếp cận làm việc ngoài xã
hội để thực hiện các báo cáo chuyên đề sâu tứng nhóm môn học và kết thúc đợt
thực tập tổng hợp phải có báo cáo với cơ quan nơi đến thực tập và Khoa chuyên
môn.

Giai
đoạn thực tập tốt nghiệp cuối khóa:
  Cuối
khóa học sau khi sinh viên kết thúc các học phần lý thuyết và thực hiện đạt kết
quả hai giai đoạn rèn nghề và thực tập trên, trong chương trình đào tạo các
ngành TN và MT có một khoảng thời gian khá lớn cho phần thực tập tại các cơ
quan chuyên môn, các công ty, doanh nghiệp kéo dài 4-5 tháng. Sau đó viết khoá
luận hoặc báo cáo đề tài tốt nghiệp và báo vệ trước Hội đồng khoa học của khoa được
tính tương đương 10-15 tín chỉ. Các khoá luận và báo cáo đề tài tốt nghiệp
ngoài việc thẩm định và đánh giá của hội đồng khoa học của Khoa, còn được thẩm
định và xác nhận bằng chữ ký có con dấu của cơ quan nơi sinh viên đến thực tập
và yêu cầu cần có bản thảo khoá luận hoặc báo cáo nộp cơ quan đến thực tập mới
viết nhận xét. Điều này không chỉ là việc sinh viên tích lũy được học phần, mà
còn tạo điều kiện cho sinh viên tiếp xúc với cơ quan, công ty nâng cao kiến
thức thực tế, làm việc độc lập, hợp tác và tạo khả năng xin việc sau khi tốt
nghiệp. Thực tế đã cho thấy nhiều sinh viên các ngành TN và MT sau khi tốt
nghiệp đã xin việc được tại các cơ quan và công ty, doanh nghiệp mà họ đã đến thực
tập.

Ngoài
ra, Khoa chuyên môn và Nhà trưòng thường xuyên để sinh viên được tiếp cận được
với các cựu sinh viên thành đạt về chuyên môn hằng năm vào ngày gặp mặt truyền
thống Khoa và hướng đến việc mời các cựu sinh viên thành đạt, những nhà chuyên
môn giỏi đến trao đổi chuyên môn và giúp định hướng nghề nghiệp cho sinh viên
trước khi ra trường.

Trong
chương trình đào tạo các học phần giảng dạy lý thuyết trên giảng đường được
thiết kế để các giảng viên có thể sử dụng được các công cụ hỗ trợ hiện đại như
máy tính xách tay kết hợp với máy chiếu (projector LCD), các phần mềm hỗ trợ kế
hoạch đào tạo, trang web Trường, các Khoa luôn công khai các nội dung, kế hoạch
và tài liệu phục vụ đào tạo. Trung tâm thông tin-thư viên, các phòng thí
nghiệm- thực hành phần nào đã được đầu tư chiều sâu trang thiết bị từ nguồn
ngân sách nhà nước và hợp tác quốc tế để phục vụ cho việc đào tạo và nghiên cứu
của cả sinh viên và giảng viên.

4.
NHỮNG KHÓ KHĂN VÀ KIẾN NGHỊ VỚI BỘ VÀ CÁC CƠ QUAN CHUYÊN MÔN CÁC TỈNH VỀ ĐÀO
TẠO NGUỒN NHÂN LỰC TN VÀ MT ĐẠT CHẤT LƯỢNG CAO

4.1 Những khó khăn đang gặp phải

 Trong quá trình đào tạo và nghiên cứu khoa học
gắn với các nhu cầu của xã hội các ngành TN và MT của Trường cũng gặp nhiều khó
khăn. Trong đó nổi bật là các vấn đề sau:

Thứ nhất là: Các ngành TN và MT
đào tạo tại Trường mới 15 năm trở lại đây nên vẫn còn nhiều hạn chế về nguồn
lực trình độ cao như TS, GS, PGS và trang thiết bị. Mặc khác Trường cũng ít
được sự quan tâm và giúp đỡ từ phía Bộ chuyên môn không trực tiếp quản lý là Bộ
Tài nguyên và Môi trường như một số Trường trực thuộc Bộ vì Trường hiện nay
trực thuộc Bộ GD và ĐT nhưng nguồn nhân lực TN và MT mà Trường đào tạo trình độ
kỹ sư và sau ĐH ra trường hiện nay chiếm phần lớn các cơ quan chuyên môn ở miền
Trung và Tây nguyên.

Thứ hai là: Vấn đề thực tập của
sinh viên tại các cơ quan chuyên môn từ cấp huyện, sở, các công ty, các doanh
nghiệp. Hầu hết cơ quan, công ty và doanh nghiệp ở miền Trung và Tây Nguyên
không có những qui định cụ thể về việc tiếp nhận sinh viên đến thu thập số liệu
và thực tập tốt nghiệp, như hàng năm phải dành bao nhiêu chỗ cho sinh viên thực
tập, các chính sách về hướng dẫn thực tập, chính sách cung cấp số liệu ngành và
chính sách phụ cấp làm việc cho sinh viên mặc dù nguồn nhân lực đào tạo chủ yếu
sau khi ra trường lại phục vụ cho các cơ quan và doanh nghiệp thuộc lĩnh vực TN
và MT chính họ. Đa phần sinh viên được nhận thực tập hiện nay là qua các mối
quan hệ và trong thực tập có thể được cơ quan đến thực tập giao thêm một số
việc nhưng ít và không được giúp đỡ sinh viên về mặc vật chất. Do vậy, trong
thời gian tới Nhà nước phải ban hành các qui định cụ thể về vấn đề này vì đó
chính là trách nhiệm xã hội trong đào tạo của người đứng đầu các cơ quan và cả
cơ quan.

Thứ ba là: Tiếp cận nguồn thông
tin chính xác và cập nhật về lĩnh vực TN và MT. Trong quá trình học tập và
nghiên cứu khoa học, sinh viên cũng như cán bộ giảng viên của Trường (Khoa) cần
rất nhiều thông tin liên quan đến các hoạt động TN và ở các địa phương để dựa
trên đó viết các tiểu luận và báo cáo khoa học, song để tìm kiếm thông tin và
nhận được các thông tin về tình hình hoạt động là một vấn đề khó khăn ở các cơ
quan chuyên môn hiện nay. Chính điều này cũng làm hạn chế khả năng tiếp cận
kiến thức thực tế của sinh viên. Trong vấn đề này, Nhà nước cần có các qui định
cụ thể về công khai hóa thông tin từ các cơ quan phục vụ cho việc đào tạo và
NCKH.

  4.2.
Kiến nghị của Trường với Bộ Tài nguyên và Môi trường và các địa phương

Trường Đại học Nông
Lâm Huế – Đại học Huế kính đề nghị được phía Bộ Tài nguyên và Môi trường quan
tâm và trong chiến lược phát triển đào tạo nguồn nhân lực ngành TN và MT đến
năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030 do phía Bộ chủ trì phối hợp với Bộ GD và ĐT để
trình Chính phủ như bản dự thảo, Trường ĐHNL Huế mong muốn sẽ được xem như một
trong những Trường chủ chốt tại miền Trung tham gia vào chiến lược đào tạo và
phát triển nguồn nhân lực này và với lợi thế nằm Trung tâm miền Trung Việt Nam,
Trường ĐHNL Huế xin có mấy kiến nghị cụ thế sau:

Một là: Trường Đại học Nông
Lâm Huế được tham gia vào quá trình góp ý và xây dựng chiến lược phát triển
nguồn nhân lực TN và MT chất lượng cao đến năm 2020 và tầm nhìn đến 2030 toàn
quốc do phía Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì.

Hai là: Trường Đại học Nông
Lâm Huế và Bộ Tài Nguyên và Môi trường xúc tiến bàn bạc và đi đến thống nhất ký
kết qui chế phối hợp về đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao và nghiên cứu
khoa học lĩnh vực Tài nguyên và Môi trường cho miền Trung và Tây nguyên.

Ba là: Thúc đẩy sự phát triển và nâng cao hiệu quả hợp tác trong các hoạt động đào
tạo, nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ và các dịch vụ khoa học – công
nghệ giữa các cơ sở đào tạo, viện, trung tâm nghiên cứu và các cơ  quan,
đơn vị của Trường Đạihọc Nông Lâm Huế và của Bộ Tài nguyên và Môi trường.

Bốn là: Phối hợp tổ chức hội
thảo, hội nghị khoa học và các lĩnh vực khác mà hai bên cùng quan tâm ở cấp
ngành, địa phương và cấp Quốc gia.

Năm là: Cán bộ khoa học của Trường được tham gia vào các hoạt động đào tạo và NCKH
do Bộ Tài
nguyên và Môi trường quản lý để nắm bắt và chia
sẽ thông tin.

Sáu là: Trong một số trường hợp
cần thiết, Bộ Tài
nguyên và Môi trường có thể đặt hàng đào tạo và NCKH với
Trường Đại học Nông
Lâm Huế, đặc biệt trên một số lĩnh vực mà Trường có thế mạnh như Quản lý đất đai,
Môi trường nông thôn,  Quản lý tài nguyên
đất và nước, Quản lý môi trường, Qui hoạch và sử dụng đất, Quản lý nhà nước về
đất đai.

Bảy là: Trường Đại học Nông
Lâm Huế ưu tiên cơ chế đặt hàng của Bộ với các chương trình đào
tạo và nghiên cứu trình độ cao như liên kết đào tạo Thạc
sỹ, Tiến sỹ với nước ngoài về các lĩnh vực Bộ đang cần nguồn nhân lực; liên kết
nghiên cứu với nước ngoài về kỹ thuật, công nghệ để giải quyết các vấn đề thực
tiễn đang đặt ra cho sự nghiệp phát triển Tài nguyên và Môi trường.

Một lần nữa, Chúng
tôi cảm ơn phía Bộ TN và MT và Bộ GD và ĐT đã tạo cơ hội cho Trường chúng tôi
được trình bày tham luận tại Hội nghị toàn quốc bàn chiến lược đào tạo nguồn
nhân lực ngành TN và MT hôm nay. Trường Đại học Nông Lâm Huế rất mong muốn được
Bộ Trưởng và các đồng chí lãnh đạo Bộ, Tổng cục thuộc Bộ quan tâm và có dịp đến
thăm Trường trong thời gian tới, đó là niềm vinh hạnh cho Trường chúng tôi và
cũng là cơ hội để mở rộng sự hợp tác trong chiến lược phát triển đào tạo nguồn
nhân lực TN và MT chung của nước ta.

BÌNH LUẬN

Please enter your comment!
Please enter your name here